Cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực”: Một số vấn đề từ hướng tiếp cận thiết chế xã hội
(TG) - Thực tế cho thấy, xã hội càng đi vào quỹ đạo phát triển càng có nguy cơ gia tăng tham nhũng, tiêu cực; song càng có năng lực, quyết tâm để đấu tranh phòng, chống tham nhũng và tiêu cực kịp thời, hiệu quả hơn. Tiếp cận thiết chế xã hội có đặc điểm là nhấn mạnh tính hệ thống, tính toàn diện và mối quan hệ tương tác không thể tách rời với hệ thống thiết chế xã hội hiện hành. Vì vậy, cần khẳng định, tham nhũng và tiêu cực gia tăng là do hệ thống các thiết chế xã hội chưa thực hiện tốt chức năng kiểm soát xã hội. Để đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực kịp thời và có hiệu quả, nhất định phải tìm kiếm, triển khai các giải pháp một cách đồng bộ từ hệ thống các thiết chế xã hội đang hiện hành.

Việc công bố cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” (Cuốn sách) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong thời điểm này có ý nghĩa rất quan trọng. Điều này cho thấy rõ quyết tâm lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tổng Bí thư trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và tiêu cực. Cuốn sách đã tập trung phân tích, chứng minh và khẳng định: “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng tiêu cực: một việc làm cần thiết, tất yếu; một xu thế không thể đảo ngược; nhất quán phương châm: phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm, từ xã, cả gốc lẫn ngọn; trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”. Đồng thời, cuốn sách đã cổ vũ, khích lệ toàn bộ hệ thống chính trị và hệ thống xã hội tích cực, tự nguyện, tự giác tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng và tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện.
TƯ TƯỞNG VÀ PHƯƠNG CHÂM CHỈ ĐẠO CỦA TỔNG BÍ THƯ VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC: TỪ HƯỚNG TIẾP CẬN THIẾT CHẾ XÃ HỘI
Thứ nhất, Cuốn sách nhận diện, phân tích hành vi tham nhũng, tiêu cực; hậu quả của hành vi tham nhũng, tiêu cực; cũng như mối quan hệ nhân - quả giữa hành vi tham nhũng và hành vi tiêu cực từ phương diện tiếp cận hệ thống thiết chế xã hội, đặc biệt là ở các thiết chế chính trị, kinh tế, đạo đức, văn hóa.
So với “tham nhũng” thì “tiêu cực” có nghĩa rộng hơn, do đó, phải xác định phạm vi của tiêu cực mà chúng ta cần tập trung phòng, chống là những hành vi có liên quan đến tham nhũng; đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tham nhũng là một loại hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, là loại biểu hiện cụ thể của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tham nhũng và tiêu cực, nhất là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có mối quan hệ gắn bó mật thiết, chặt chẽ với nhau; nguyên nhân cơ bản, trực tiếp của tham nhũng là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tiêu cực là môi trường làm nảy sinh tham nhũng; tham nhũng tác động trở lại làm trầm trọng hơn tình trạng tiêu cực. Nếu chỉ phòng, chống tham nhũng về tiền bạc, tài sản thôi thì chưa đủ, mà nguy hại hơn là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đây mới là cái gốc của tham nhũng; không suy thoái, hư hỏng thì làm gì dẫn đến tham nhũng? Tiền bạc, tài sản có thể còn thu hồi được, nhưng nếu suy thoái về đạo đức, tư tưởng là mất tất cả (1).
Thứ hai, cuốn sách cũng phân tích, khẳng định mục đích, vai trò, ý nghĩa của công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam từ phương diện thiết chế xã hội; góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Mục đích của việc xử lý tham nhũng, tiêu cực là để “trị bệnh cứu người”, kỷ luật một vài người để cứu muôn người, truy tố một vụ để cảnh tỉnh cả một vùng, một lĩnh vực; từ đó để cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa là chính, nên cần phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn; phải tăng cường giáo dục kỷ luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, dùng kỷ luật nghiêm minh và giám sát nghiêm khắc để cán bộ, đảng viên biết giữ gìn, nhớ điều cấm, giữ giới hạn (2). Trước đây, chúng ta chủ yếu quan tâm đến tác hại trước mắt, về vật chất (kinh tế, tiền bạc), nay chúng ta quan tâm nhiều hơn, nhìn rõ hơn tác hại tiềm ẩn, khôn lường của tham nhũng, tiêu cực, làm hư hỏng, mất cán bộ, mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ và cuối cùng là mất chế độ như đã từng xảy ra trong thực tiễn lịch sử trên thế giới. Vị trí, vai trò của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng được coi trọng và nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn (3).
Thứ ba, Cuốn sách giải thích, phân tích và khẳng định các nguyên nhân làm gia tăng tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam từ góc độ tiếp cận thiết chế xã hội. Đó là do các thiết chế pháp luật chưa kịp thời, nghiêm minh; thiết chế đạo đức chưa phát huy vai trò nêu gương; thiết chế chính trị chưa thực hiện tốt chức năng tự kiểm soát quyền lực và đề cao trách nhiệm chính trị… Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là: Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ; nhiều quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn, sơ hở, dễ bị lợi dụng. Bộ máy hành chính còn cồng kềnh; phân công, phân cấp chưa thật rõ ràng, rành mạch; cải cách hành chính chưa tốt. Quy định về trách nhiệm người đứng đầu thiếu cụ thể, chưa khuyến khích họ tích cực, chủ động trong phát hiện, xử lý tham nhũng xảy ra trong cơ quan, đơn vị, địa phương mình quản lý. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ tham nhũng; chưa phát huy được hết sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức còn yếu. Một số cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị vẫn chưa quan tâm thực hiện các giải pháp phòng, chống tham nhũng hoặc có triển khai nhưng còn hình thức. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; chưa đi đầu và nêu gương trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Vai trò của các cơ quan dân cử, truyền thông và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng chưa được phát huy đầy đủ (4).
Thứ tư, Cuốn sách phân tích, chứng minh, đáng giá và khẳng định các kết quả đạt được trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam từ góc độ thiết chế xã hội. Điều này được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Một là, đã quan tâm ban hành các chủ trương chính sách; xây dựng hoàn thiện bộ máy tổ chức, đáp ứng yêu cầu công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền và đã đạt được kết quả bước đầu rất quan trọng. Có thể khẳng định, cho đến nay, các chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã tương đối đầy đủ; cái cần nhất lúc này là sự tự giác, sự thống nhất cao về ý chí và hành động, là tổ chức thực hiện (5). Trong phòng và đấu tranh chống tham nhũng, thì “Trung ương không bao giờ nhụt chí”, “nếu ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm” và “việc xử lý cán bộ có sai phạm, trước nói đánh từ vai đánh xuống, nhưng giờ đánh từ trên đầu nhiều hơn” (6). Từ sau khi thành lập Ban Chỉ đạo đến nay, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự “đã trở thành phong trào, xu thế”, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước (7).
Hai là, đã từng bước đồng thời hướng đến mục tiêu 4 không trong đấu tranh, phòng, chống tham nhũng và tiêu cực. Đi đôi với tập trung chỉ đạo công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng cũng được đẩy mạnh, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để bảo đảm “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng (8).
Ba là, các kết quả trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thể hiện trên nhiều các phương diện thiết chế xã hội: chính trị, kinh tế, pháp luật, dư luận xã hội… với sự nghiêm minh, đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả. Thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị tư tưởng, tổ chức hành chính, kinh tế, hình sự; kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, tiêu cực. Quá trình xử lý được tiến hành đồng bộ giữa xử lý kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng thực hiện trước, tạo tiền đề để xử lý kỷ luật hành chính, đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng nghiêm hơn xử lý theo pháp luật (9). Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự lãnh đạo của Đảng (10). Nếu không dựa vào dân thì cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực khó có thể thành công. Dựa vào dân, lắng nghe dân, lắng nghe dư luận để chọn lọc tiếp thu cái đúng (11).
Bốn là, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và tiêu cực dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự đi đúng hướng trong tư duy, tầm nhìn và hành động. Chính điều này là cơ sở có ý nghĩa cốt lõi để khẳng định, công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam nhất định sẽ đi tới đích thành công. Vấn đề này được Tổng Bí thư đưa ra các lập luận nhiều lần trong cuốn sách. Chẳng hạn: phòng, chống tiêu cực, mà trọng tâm là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, tức là trị tận gốc của tham nhũng (12). Công tác phát hiện và xử lý tham nhũng đã được chỉ đạo và thực hiện một cách bài bản, đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả, tạo bước đột phá trong công tác phòng, chống tham nhũng, khẳng định quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào”(13). Vấn đề căn cơ trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là phòng ngừa từ xa, từ sớm mà trọng tâm là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đặc biệt là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, tức là trị tận gốc tham nhũng, tiêu cực(14). Quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không chỉ là nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách mà đã trở thành mối quan tâm chung của các tầng lớp nhân dân, cán bộ, đảng viên và cả bạn bè quốc tế(15). Nêu cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tính tiên phong, gương mẫu của tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên trong công tác phòng, đấu tranh chống tham nhũng. Đồng thời, “chú trọng cả phòng và chống, với tinh thần kiên quyết, kiên trì, liên tục, đúng pháp luật, nhằm tạo chuyển biến rõ rệt hơn nữa trong công tác phòng, chống tham nhũng, củng cố niềm tin của nhân dân”(16).
Thứ năm, Cuốn sách khẳng định sự cần thiết phải tăng cường hệ thống các giải pháp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ góc độ hệ thống thiết chế xã hội với yêu cầu ngày càng đồng bộ, chặt chẽ hơn. Từ sự phát triển nhận thức, tư duy về những vấn đề nêu trên, Đảng ta đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, với bước đi, lộ trình phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước, từ tuyên truyền, giáo dục; hoàn thiện thể chế; công tác cán bộ; kiểm tra, giám sát; công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát tài sản, thu nhập; cải cách hành chính đến phát hiện, xử lý, xây dựng cơ quan, đơn vị và cán bộ chuyên trách phòng, chống tham nhũng, tiêu cực,...Thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đó sẽ bảo đảm được “bốn không”, đó là: “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng, tiêu cực mà nhiều quốc gia đã và đang hướng đến(17).
Giải pháp đề cao vai trò trung tâm, trọng tâm và cốt yếu của 4 thiết chế xã hội: chính trị, pháp luật, văn hóa và kinh tế trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng và tiêu cực nhằm từng bước hướng tới mục tiêu 4 không. Tăng cường công khai, minh bạch, giám sát, kiểm soát quyền lực; xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để “không muốn”, “không cần” tham nhũng, tiêu cực (18). Phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể” tham nhũng, tiêu cực; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám” tham nhũng, tiêu cực; xây dựng văn hóa liêm chính để “không muốn” tham nhũng, tiêu cực; và một cơ chế bảo đảm để “không cần” tham nhũng, tiêu cực (19).
Giải pháp từ sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa thiết chế xã hội: chính trị, pháp luật và kinh tế. Phải tập trung chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng; phấn đấu từ nay đến hết nhiệm kỳ cơ bản hoàn thành một bước về xây dựng một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng” (20). Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng; kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín những “khoảng trống”, “kẽ hở” để “không thể tham nhũng” (21).
Giải pháp đề cao sự phối hợp giữ các thiết chế xã hội chính thức và phi chính thức; thực sự kết nối nhiều tầng nấc, nhiều khâu của hệ thống thiết chế xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Phải kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, kịp thời xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực; trong đó, phòng ngừa là chính, là cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan trọng, đột phá (22). Phát huy mạnh mẽ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và báo chí, doanh nghiệp, doanh nhân trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng phải cổ vũ, động viên sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (23).
Giải pháp về phát huy đồng thời cả hai xu hướng về chức năng của hệ thống thiết chế xã hội. Thúc đẩy, cổ vũ, khuyến khích các hành vi tích cực trong đấu tranh, phòng chống tham nhũng và tiêu cực; đồng thời kiểm soát, lên án, chế tài, trừng phạt thích đáng các hành vi tham nhũng, tiêu cực. Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm. Bên cạnh việc xử lý nghiêm đối với những trường hợp sai phạm, chúng ta cũng cần có cơ chế để bảo vệ, khuyến khích những cán bộ, đảng viên, người đứng đầu dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, mạnh dạn, đi đầu trong đổi mới vì sự phát triển của đất nước; việc đánh giá, nhìn nhận về các sai phạm cũng cần phải đặt trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể để có quan điểm xử lý khách quan, phù hợp (24).
Giải pháp tăng cường sự kết hợp giữa thiết chế xã hội: giáo dục, truyền thông, dư luận xã hội, văn hóa…trong toàn bộ hệ thống chính trị và hệ thống xã hội nhằm đảm bảo cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng tiêu cực đạt kết quả bền vững. Phải tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống tham nhũng (25). Phải tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân (26).
Giải pháp cần phải đặc biệt quan tâm đến đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thông qua sự phối hợp đồng bộ, kịp thời và hiệu quả giữa thiết chế chính trị, thiết chế báo chí- truyền thông trong điều kiện Việt Nam. Các cơ quan truyền thông cần đăng tin, bài định hướng đúng đắn dư luận xã hội để thấy rõ những kết quả tích cực của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cũng như những hạn chế, yếu kém, những khó khăn, phức tạp; khẳng định rõ quyết tâm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị trong việc ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng. Khắc phục tình trạng thông tin một chiều, thông tin không chính xác, mang tính kích động, gây hoang mang hoặc quy kết về tội danh, mức án trước khi xét xử (27).
Giải pháp phòng, chống tham nhũng tiêu cực cần phải đặc biệt quan tâm và phát huy vai trò, đặc điểm của thiết chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của bối cảnh đất nước; cũng như không ngừng quan tâm nghiên cứu phát triển tư duy lý luận trong đấu tranh, phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Các giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải phù hợp với bối cảnh, yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và truyền thống văn hóa của dân tộc; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài; kế thừa kinh nghiệm của các nhiệm kỳ trước. Trong từng giai đoạn khác nhau, phải xác định những nhiệm vụ trọng tâm, những giải pháp có tính đột phá, phù hợp với tình hình của đất nước, của địa phương để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Phải phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cả trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước; thường xuyên tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, bổ sung những vấn đề mới, cách làm hay, sáng tạo, góp phần nâng cao hiệu quả công tác; không ngừng đổi mới tư duy, hoàn thiện lý luận về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (28).
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HIỆN THỰC HÓA TƯ TƯỞNG VÀ PHƯƠNG CHÂM CHỈ ĐẠO CỦA TỔNG BÍ THƯ VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC
